Ung thư hạ họng thanh quản là gì? Các công bố khoa học về Ung thư hạ họng thanh quản

Ung thư hạ họng thanh quản, còn được gọi là ung thư hạ họng và thanh quản, là một loại ung thư phát triển trong các mô và tế bào của hạ họng và thanh quản. Đây ...

Ung thư hạ họng thanh quản, còn được gọi là ung thư hạ họng và thanh quản, là một loại ung thư phát triển trong các mô và tế bào của hạ họng và thanh quản. Đây là một loại ung thư phổ biến, thường gặp ở người trưởng thành và thường gây ra các triệu chứng như ho kéo dài, khò khè, khó thở, khó nuốt và sưng cổ. Faktör gây ung thư hạ họng thanh quản bao gồm hút thuốc lá, tiếp xúc với thuốc lá, uống rượu, tiếp xúc với các chất gây ung thư, nhiễm HPV và di truyền. Trị liệu cho ung thư hạ họng thanh quản bao gồm phẫu thuật, hóa trị, xạ trị và các phương pháp điều trị khác, tùy thuộc vào giai đoạn và tính chất của ung thư.
Ung thư hạ họng thanh quản là tình trạng khi các tế bào bình thường trong hạ họng và thanh quản trở nên bất thường và tăng sinh một cách không kiểm soát. Ung thư này thường được phân loại dựa trên vị trí của khối u trong hạ họng và thanh quản và theo giai đoạn của bệnh.

Các triệu chứng chính của ung thư hạ họng thanh quản bao gồm:
1. Ho kéo dài hoặc thay đổi cách ho.
2. Khó thở hoặc khó nuốt.
3. Sưng cổ hoặc đau cổ.
4. Tiếng kêu lạ hoặc thay đổi giọng nói.
5. Mất cân nặng không rõ nguyên nhân.
6. Đau ngực hoặc đau lưng.

Các yếu tố gây ung thư hạ họng thanh quản bao gồm:
1. Hút thuốc lá: Hút thuốc lá là yếu tố rủi ro hàng đầu gây ung thư hạ họng thanh quản.
2. Tiếp xúc với thuốc lá: Tiếp xúc với khói thuốc lá từ người khác cũng tăng nguy cơ mắc ung thư hạ họng thanh quản.
3. Uống rượu: Uống rượu có liên quan đến nguy cơ mắc ung thư hạ họng thanh quản, đặc biệt khi kết hợp với hút thuốc lá.
4. Tiếp xúc với các chất gây ung thư: Tiếp xúc với các hợp chất gây ung thư như amiandehit, asbest, niken hay các chất ô nhiễm hóa học khác có thể tăng nguy cơ mắc ung thư hạ họng thanh quản.
5. Nhiễm HPV: Một số trường hợp ung thư hạ họng thanh quản được gắn liền với vi-rút HPV.
6. Di truyền: Có một yếu tố di truyền được cho là có ảnh hưởng đến sự phát triển của ung thư hạ họng thanh quản.

Phương pháp điều trị ung thư hạ họng thanh quản phụ thuộc vào vị trí của khối u, liệu pháp chọn lựa và giai đoạn của bệnh. Các biện pháp điều trị bao gồm:
1. Phẫu thuật: Bao gồm phẫu thuật cắt bỏ khối u hoặc một phần của hạ họng hoặc thanh quản.
2. Hóa trị: Sử dụng thuốc chống ung thư để tiêu diệt tế bào ung thư.
3. Xạ trị: Sử dụng tia X để tiêu diệt tế bào ung thư.
4. Các phương pháp điều trị khác như liệu pháp ánh sáng động, điều trị tiếp xúc nội bào, và immunotherapy có thể được sử dụng cho một số trường hợp đặc biệt.

Quá trình điều trị cũng có thể bao gồm biến chứng và tác dụng phụ, do đó điều trị ung thư hạ họng thanh quản thường đòi hỏi một quy trình phức tạp và tùy từng trường hợp cụ thể.

Danh sách công bố khoa học về chủ đề "ung thư hạ họng thanh quản":

NGHIÊN CỨU ĐẶC ĐIỂM LÂM SÀNG, CẬN LÂM SÀNG UNG THƯ HẠ HỌNG - THANH QUẢN GIAI ĐOẠN III, IVA-B TẠI BỆNH VIỆN UNG BƯỚU NGHỆ AN NĂM 2020
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 501 Số 1 - 2021
Ung thư hạ họng - thanh quản (UTHH-TQ) là loại ung thư tương đối phổ biến, chiếm khoảng 6% trong các loại ung thư vùng đầu cổ. Bệnh không những ảnh hưởng trầm trọng đến các chức năng thở, nuốt và nói mà còn nguy hại đến tính mạng. Nếu được phát hiện sớm và điều trị kịp thời có thể hạ thấp tỉ lệ tử vong một cách đáng kể. Mục tiêu: Mô tả một số đặc điểm lâm sàng, mô bệnh học UTHH-TQ giai đoạn III, IVA-B. Đánh giá hình thái tổn thương UTHH-TQ qua nội soi. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: 53 người bệnh và 48 hồ sơ bệnh án UTHH-TQ giai đoạn III, IVA-B tại bệnh viện Ung bướu Nghệ An từ tháng 01/2020 đến hết tháng 12/2020. Phương pháp nghiên cứu: Thu thập số liệu thông tin thứ cấp trên 48 bệnh án, khám và hỏi trên 53 người bệnh. Kết quả: Chỉ số toàn trạng (PS) chủ yếu PS=1 (64,4%); rối loạn nuốt 93/101(92,1%), nổi hạch cổ 74/101 (73,3%), khàn tiếng 21/101(20,8%). Giai đoạn bệnh chủ yếu giai đoạn IV 70/101 (79,3%). Mô bệnh học: 100% ung thư biểu mô tế bào vảy có độ mô học II và III. Ung thư hạ họng - thanh quản chủ yếu xuất phát từ xoang lê 82/101(81,2%). Thể sùi gặp nhiều nhất 70/101(69,3%).
#Ung thư hạ họng - thanh quản #đặc điểm lâm sàng #cận lâm sàng
TẠO HÌNH KHUYẾT THIẾU ỐNG HỌNG SAU CẮT HẠ HỌNG THANH QUẢN TOÀN PHẦN BẰNG VẠT ĐẢO ĐỘNG MẠCH THƯỢN ĐÒN: CA LÂM SÀNG
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 517 Số 2 - 2022
Mục tiêu: Mô tả tạo hình khuyết thiếu ống họng sau cắt hạ họng thanh quản toàn phần bằng vạt đảo động mạch thượng đòn. Đối tượng và phương pháp: Bệnh nhân ung thư hạ họng thanh quản sau cắt hạ họng thanh quản toàn phần bị khuyết thiếu ống họng không thể khâu đóng ống họng, và được  tạo hình ống họng bằng vạt đảo động mạch thượng đòn. Mô tả ca bệnh. Kết quả: Khối ung thư hạ họng thanh quản được cắt bỏ hoàn toàn với vùng rìa âm tính, ống họng được tạo hình bằng vạt  đảo động mạch thượng đòn sống và liền tốt, sau phẫu thuật 8 tuần không có hoại tử vạt, không có rò họng, không sẹo hẹp ống họng, đảm bảo tốt chức năng nuốt. Kết luận: Sử dụng vạt đảo động mạch thượng đòn tạo hình khuyết thiếu ống họng sau cắt hạ họng thanh quản toàn phần là kỹ thuật dễ làm, thời gian ngắn, vạt da cân mỏng dễ cuộn khi tạo hình ống họng, vạt có cuống dễ sống và liền tốt.
#vạt đảo động mạch thượng đòn #ung thư hạ họng thanh quản #tạo hình ống họng
Đặc điểm lâm sàng và thực trạng chẩn đoán ung thư thanh quản tại một số bệnh viện ở Hà Nội hiện nay
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐIỀU DƯỠNG - Tập 5 Số 02 - Trang 115-123 - 2022
Mục tiêu: Mô tả đặc điểm lâm sàng và thực trạng chẩn đoán ung thư thanh quản tại một số bệnh viện ở Hà Nội. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Hồi cứu mô tả trên 828 người bệnh được chẩn đoán xác định bằng lâm sàng và giải phẫu bệnh là ung thư thanh quản được điều trị tại Bệnh viện Tai mũi họng trung ương, Bệnh viện K trung ương, Bệnh viện Ung bướu Hà Nội từ  2014 đến 2019. Kết quả: Triệu chứng cơ năng thường thấy nhất là khàn tiếng chiếm 96,1% ; người bệnh được phát hiện bệnh dưới 6 tháng kể từ khi có triệu chứng cơ năng đầu tiên là 84,7%; ung thư khởi đầu từ thanh môn chiếm tỷ lệ cao nhất 94,3%; Tổn thương ung thư khu trú ở 1 tầng thanh quản chiếm 53%, chủ yếu ở thanh môn (49,6%); người bệnh được chẩn đoán ở giai đoạn sớm T1, T2 với tỷ lệ 87,2%; Số người bệnh không có di căn hạch vùng chiếm tỷ lệ cao nhất 98,1%. Kết luận: Triệu chứng lâm sàng chủ yếu trên người bệnh ung thư thanh quản là khàn tiếng. Đa số người bệnh được chẩn đoán bệnh ở giai đoạn sớm và tỷ lệ di căn hạch thấp.
#Ung thư thanh quản #Bệnh viện Tai mũi họng trung ương #Bệnh viện K trung ương #Bệnh viện Ung bướu Hà Nội
ĐÁNH GIÁ NỘI SOI ỐNG MỀM TRONG CHẨN ĐOÁN UNG THƯ HẠ HỌNG, THANH QUẢN
Mục tiêu: Khảo sát một số đặc điểm ung thư hạ họng, thanh quản (UTHHTQ) và đối chiếu kết quả nội soi ống mềm (NSOM) và nội soi ống cứng (NSOC) optic 700 trong chẩn đoán UTHHTQ. Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu mô tả từng ca bệnh trên 30 bệnh nhân (BN) được chẩn đoán ung thư hạ hong (UTHH), ung thư thanh quản (UTTQ). Kết quả: Về giới tính; 100% BN là nam. Nhóm tuổi hay gặp nhất từ 51 - 70 (63,3%); các triệu chứng cơ năng chính khi vào viện: Khàn tiếng 56,7%; nuốt vướng 53,3%, 100% BN có tiền sử hút thuốc và uống rượu. Phân loại T qua NSOM: Tx (33,3); T1 chiếm chủ yếu (30,0%); vị trí của UTHH chủ yếu ở xoang lê (52,6%), vị trí của UTTQ chủ yếu ở dây thanh (63,6%), có 73,3% BN dây thanh di động bình thường; u sùi chiếm 47,6%. Phân loại giai đoạn T cơ bản tương đồng, vị trí khối u giữa NSOM và ống cứng optic 700 là tương đồng; có sự khác nhau về vị trí lan tràn của khối u ở mặt sau nắp thanh thiệt, mép trước và hạ thanh môn. Kết luận: Nội soi UTHHTQ ống mềm thuận tiện và cho kết quả chính xác hơn nội soi thanh quản ống cứng.
#Nội soi ống mềm #Ung thư hạ họng #Ung thư thanh quản
ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ HOÁ XẠ TRỊ ĐỒNG THỜI TRIỆT CĂN UNG THƯ HẠ HỌNG – THANH QUẢN GIAI ĐOẠN III, IVA-B VỚI CISPLATIN CHU KÌ 3 TUẦN
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 525 Số 2 - 2023
Mục tiêu: Đánh giá đáp ứng điều trị hoá xạ trị đồng thời triệt căn với cisplatin chu kì 3 tuần cho ung thư hạ họng – thanh quản giai đoạn III, IVA-B và mối liên quan với đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng. Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu mô tả cắt ngang hồi cứu kết hợp tiến cứu trên 32 bệnh nhân ung thư hạ họng – thanh quản III, IVA-B được điều trị bước đầu bằng hoá xạ trị đồng thời với Cisplatin chu kì 3 tuần tại khoa Vật lý, xạ trị - Bệnh viện Quân Y 103 và khoa Xạ trị, xạ phẫu – Bệnh viện Trung ương Quân đội 108 từ tháng 01/2020 đến tháng 10/2022. Kết quả: 46,9% hết triệu chứng lâm sàng; 56,3% đáp ứng hoàn toàn; đáp ứng hoàn toàn tại u là 62,5%, đáp ứng hoàn toàn tại hạch là 56,3%. Các yếu tố liên quan đến đáp ứng điêu trị gồm: giai đoạn, thể trạng chung, truyền đủ hoá chất, nhận đủ liều xạ trị. Kết luận: Phác đồ hoá xạ trị đồng thời với cisplatin chu kì 3 tuần cho thấy hiệu quả điều trị với ung thư hạ họng – thanh quản giai đoạn III, IVA-B.
#Ung thư hạ họng – thanh quản #cisplatin #hoá xạ trị đồng thời.
ĐÁNH GIÁ MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM VÀ ĐÁP ỨNG NHU CẦU CHĂM SÓC CỦA NGƯỜI BỆNH SAU PHẪU THUẬT UNG THƯ THANH QUẢN- HẠ HỌNG
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 517 Số 1 - 2022
Nghiên cứu mô tả cắt ngang trên 110 người bệnh sau phẫu thuật ung thư thanh quản - hạ họng, từ tháng 7.2021 đến tháng 5.2022, tại Trung tâm ung bướu và phẫu thuật đầu cổ bệnh viện Tai Mũi Họng trung ương. Mục tiêu: mô tả một số đặc điểm và thực trạng đáp ứng nhu cầu chăm sóc của người bệnh sau phẫu thuật ung thư thanh quản - hạ họng. Kết quả: tỷ lệ người bệnh có nhu cầu chăm sóc về: thể chất là 100% (80 % có nhu cầu cao, 20% có nhu cầu thấp), tinh thần là 98,2% (44,6% có nhu cầu cao, 53,6% có nhu cầu thấp), xã hội là 99,1% (có 87,3% là nhu cầu cao, 11,8% có nhu cầu thấp), y tế là 100% (90,9% có nhu cầu cao, 9,1% có nhu cầu thấp). Thực trạng đáp ứng các nhu cầu chăm sóc: thể chất đáp ứng tốt là 87,3% (đáp ứng kém hoặc không đáp ứng là 12,7%), tinh thần đáp ứng tốt là 83,3% (đáp ứng kém hoặc không đáp ứng là 16,7%), xã hội đáp ứng tốt là 83,5% (đáp ứng kém hoặc không đáp ứng là 16,5%), y tế đáp ứng tốt là 90% (đáp ứng kém hoặc không đáp ứng là 10%).
#nhu cầu chăm sóc #ung thư hạ họng #ung thư thanh quản
Nồng độ sắt huyết thanh tăng lên do hóa trị liệu ung thư liên quan đến buồn nôn và nôn do hóa trị liệu Dịch bởi AI
International Journal of Clinical Oncology - Tập 23 - Trang 1196-1200 - 2018
Cơ chế bệnh sinh của buồn nôn và nôn do hóa trị liệu (CINV) chưa hoàn toàn được làm rõ. Chúng tôi giả thuyết rằng nồng độ sắt huyết thanh có thể liên quan đến CINV vì các triệu chứng của ngộ độc sắt tương tự như tác dụng phụ của hóa trị. Bệnh nhân bị ung thư phổi đang thực hiện hóa trị liệu được đưa vào nghiên cứu hồi cứu này, trong đó nồng độ sắt huyết thanh, khả năng kết hợp sắt không bão hòa (UIBC), khả năng kết hợp sắt tổng cộng và ferritin được ghi nhận trước và vào ngày thứ 2 và thứ 8 của hóa trị. Năm mươi hai bệnh nhân đã được phân tích. Nồng độ sắt vào ngày thứ 2 tăng đáng kể ở những bệnh nhân nhận hóa trị liệu gây buồn nôn mạnh (HEC, 231,0 ± 45,0 µg/dl) và hóa trị liệu gây buồn nôn vừa (MEC, 226,6 ± 44,2 µg/dl), và tăng nhẹ ở những bệnh nhân nhận hóa trị liệu gây buồn nôn ít (LEC, 104 ± 51,4 µg/dl). Có sự khác biệt đáng kể về nồng độ sắt vào ngày thứ 2 giữa nhóm HEC và LEC (P = 0,002) và MEC và LEC (P = 0,0007). Mức UIBC giảm vào ngày thứ 2 (18,0 ± 17,5 µg/dl ở HEC, 20,4 ± 46,8 µg/dl ở MEC, và 123,9 ± 65,9 µg/dl ở LEC). Có sự khác biệt đáng kể về UIBC vào ngày thứ 2 giữa nhóm HEC và LEC (P = 0,0005) và MEC và LEC (P = 0,0015). Không có sự thay đổi đáng kể nào về các tham số này ở nhóm có rủi ro tối thiểu. Nồng độ sắt tăng lên theo mức độ nguy cơ gây buồn nôn. Cùng với mức sắt tăng mạnh, sắt không gắn transferrin, một dạng sắt có tính chất gây độc cao, có thể có mặt trong huyết thanh. Việc loại bỏ sắt bằng tác nhân chelat sắt có thể đại diện cho liệu pháp chống buồn nôn mới cho bệnh nhân đang hóa trị liệu.
#buồn nôn do hóa trị liệu #nôn do hóa trị liệu #nồng độ sắt huyết thanh #ung thư phổi #liệu pháp chống buồn nôn
Đặc điểm quang phổ và thống kê bậc cao của âm thanh thở khí quản khi thở ra trong trạng thái tỉnh táo và ngủ ở những người có các mức độ khác nhau của hội chứng ngưng thở khi ngủ tắc nghẽn Dịch bởi AI
Springer Science and Business Media LLC - Tập 39 - Trang 244-250 - 2018
Chúng tôi đã nghiên cứu những thay đổi khả thi trong các đặc tính quang phổ và các thuộc tính thống kê bậc cao của âm thanh thở khí quản từ tỉnh táo đến ngủ liên quan đến hội chứng ngưng thở khi ngủ tắc nghẽn (OSA). Dữ liệu gồm có âm thanh thở ra của 30 người tham gia nghi ngờ bị OSA trong trạng thái tỉnh táo và khi ngủ, cả hai đều được ghi lại trong tư thế nằm ngửa. Người tham gia được chia thành hai nhóm với mức độ OSA nhẹ và nặng (15 người trong mỗi nhóm) dựa trên chỉ số ngưng thở/hạ huyết áp (AHI) mỗi giờ. Ba đặc trưng dựa trên tần số khác nhau của quang phổ công suất của họ, ngoài giá trị độ nhọn (Kurtosis) và kích thước phân đoạn Katz (KFD), đã được ước lượng từ mỗi âm thanh thở ra đã được chuẩn hóa; chúng được so sánh cả trong và giữa các nhóm. Trong trạng thái tỉnh táo, công suất trung bình ở các thành phần tần số thấp của nhóm nặng ít hơn nhóm nhẹ. Tuy nhiên, trong khi ngủ, công suất trung bình của các thành phần tần số cao ở những người nặng lại cao hơn so với nhóm nhẹ. Giá trị độ nhọn của cả hai nhóm OSA nhẹ và nặng đã tăng lên đáng kể từ trạng thái tỉnh táo đến khi ngủ, cả khi dùng âm thanh thở qua miệng và mũi trong trạng thái tỉnh táo. KFD cũng tăng lên đáng kể từ tỉnh táo đến khi ngủ cho cả hai nhóm OSA nhẹ và nặng chỉ khi sử dụng âm thanh thở qua mũi trong trạng thái tỉnh táo. Những thay đổi này gợi ý rằng đường thở trên của nhóm OSA nặng cho thấy sự tuân thủ và độ dày cao hơn so với nhóm OSA nhẹ trong cả trạng thái tỉnh táo và ngủ, đồng thời thể hiện độ cứng tăng lên khi ngủ. Điều này ngụ ý về sự hẹp cục bộ, làm cho cả sự tuân thủ và độ cứng đồng thời ở những khu vực khác nhau của đường thở trên.
#hội chứng ngưng thở khi ngủ tắc nghẽn #âm thanh thở khí quản #quang phổ công suất #độ nhọn #kích thước phân đoạn Katz #đường thở trên
Phẫu Thuật Cắt Bỏ Thanh Quản Gần Như Hoàn Toàn do Thâm Nhập Ngoại Hạch từ Ung Thư Nhú vào Thanh Quản và Hạ Họng Dịch bởi AI
Springer Science and Business Media LLC - Tập 10 - Trang 614-617 - 2019
Ung thư tuyến giáp thể nhú thường xuất hiện với tổn thương khu vực hạn chế. Hiếm khi có sự mở rộng ra ngoài tuyến giáp vào các cấu trúc quan trọng xung quanh. Việc hạch di căn từ ung thư tuyến giáp thể nhú xâm nhập trực tiếp vào thanh quản hoặc hầu họng là trường hợp còn hiếm hơn. Chúng tôi báo cáo một trường hợp hiếm, trong đó có sự thâm nhập ngoại hạch từ một ung thư tuyến giáp thể nhú di căn xâm nhập vào thanh quản và xoang hình lê ở một bệnh nhân nữ 56 tuổi. Phẫu thuật cắt bỏ thanh quản gần như hoàn toàn kết hợp với cắt bỏ hầu họng một phần đã được thực hiện để loại bỏ tổn thương một cách rõ ràng nhằm đạt được sự sống không có bệnh khu vực lâu dài. Mặc dù ung thư tuyến giáp tiến triển cục bộ hiếm gặp, nhưng một khi được phát hiện, nó đặt ra thách thức cho bác sĩ phẫu thuật trong việc đạt được sự loại bỏ hoàn toàn tổn thương khối u. Cần thực hiện phẫu thuật cắt bỏ triệt để ban đầu để đạt được sự loại bỏ hoàn toàn ung thư.
#ung thư tuyến giáp #thâm nhập ngoại hạch #phẫu thuật cắt bỏ thanh quản #ung thư nhú #sống không có bệnh
Béo phì nội tạng kích thích sự hình thành cầu nối anaphase và rối loạn điểm kiểm soát lắp ráp thoi trong ung thư biểu mô thực quản kháng xạ Dịch bởi AI
Clinical and Translational Oncology - Tập 18 - Trang 632-640 - 2015
Ung thư biểu mô thực quản dạng tuyến là một mô hình tiêu biểu của ung thư liên quan đến béo phì. Bệnh ở giai đoạn địa phương thường được điều trị bằng hóa trị liệu kết hợp xạ trị trước phẫu thuật, và tỷ lệ sống sót cao nhất ở những bệnh nhân có đáp ứng bệnh lý sau liệu pháp tiền phẫu. Với việc 55% bệnh nhân ung thư biểu mô thực quản dạng tuyến bị béo phì, việc khám phá tác động của mô mỡ đến phản ứng với xạ trị là có liên quan lâm sàng. Nghiên cứu này điều tra xem mô mỡ có kích hoạt các sự kiện không ổn định nhiễm sắc thể trong các dòng tế bào ung thư thực quản nhạy xạ (OE33P) và kháng xạ (OE33R) cũng như mẫu khối u hay không. OE33R và OE33P được nuôi cấy với môi trường có điều kiện từ mô mỡ lấy từ bệnh nhân ung thư biểu mô thực quản (n = 10). Các cầu nối anaphase, một chỉ số của sự không ổn định nhiễm sắc thể, đã được đếm trong cả hai dòng tế bào sau khi điều trị bằng môi trường mô mỡ, và được chuẩn hóa theo số lượng tế bào. Sự không ổn định nhiễm sắc thể được điều chỉnh bởi phức hợp lắp ráp thoi. Sự biểu hiện của hai gen phức hợp lắp ráp thoi (MAD2L2, BUB1B) được đánh giá bằng qPCR, và được xác nhận trong các mẫu khối u của bệnh nhân bị béo phì nội tạng (n = 46) và không béo phì (n = 41). Môi trường có điều kiện từ mô mỡ làm tăng cầu nối anaphase trong OE33R (p < 0.0001), với sự tăng gấp ba lần trong OE33R so với OE33P (p < 0.01). Mức cầu nối anaphase trong tế bào OE33R có mối tương quan với trạng thái béo phì nội tạng được đo bằng vòng eo (R = 0.709, p = 0.03) và diện tích mỡ nội tạng (R = 0.794, p = 0.006). Mô mỡ đã làm thay đổi biểu hiện của MAD2L2 trong ống nghiệm. Trong cơ thể, sự biểu hiện của MAD2L2 cao hơn ở bệnh nhân ung thư biểu mô thực quản dạng tuyến bị béo phì nội tạng so với bệnh nhân không béo phì (p < 0.05). Mức độ cầu nối anaphase bị ảnh hưởng bởi tình trạng béo phì và độ nhạy xạ trong ung thư biểu mô thực quản dạng tuyến. Hơn nữa, môi trường có điều kiện từ mô mỡ nội tạng kích thích sự rối loạn của phức hợp lắp ráp thoi ở bệnh nhân ung thư biểu mô thực quản dạng tuyến.
#ung thư biểu mô thực quản #béo phì nội tạng #cầu nối anaphase #rối loạn điểm kiểm soát lắp ráp thoi #sự không ổn định nhiễm sắc thể
Tổng số: 21   
  • 1
  • 2
  • 3